Vũ Giới sinh năm Tân Sửu (1541) mất năm Quý Tỵ (1593), người xã Lương Xá, huyện Thiện Tài ( nay là thôn Lương Xá, xã Phú Lương, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Vũ Giới thi đỗ Trạng nguyên năm 1577 thời Mạc Mậu Hợp và làm quan trải đến chức Thượng thư Bộ Lại.
Vũ Viết Hiền người xóm Chi, làng Dương Sơn, tổng Tam Sơn, phủ Đông Ngàn nay là thôn Dương Sơn, xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là danh y nổi tiếng của xứ Kinh Bắc thời Lê Trung Hưng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
Nguyễn Hữu Thường người xã Nghĩa Lập ( tên Nôm là làng Sộp) của huyện Đông Ngàn, nay là thôn Nghĩa Lập, xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ tiến sỹ năm 1550 và từng giữ chức quan Tả thị lang bộ Binh.
Tiết nghĩa Đại Vương Nguyễn Tự Cường sinh năm 1488, mất năm 1548, là người làng Tam Sơn (xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn). Ông làm quan dưới thời Lê Sơ, giữ chức Hiến sát sứ. Về sau ông phò vua Lê chống Mạc nhưng bị bại nên ông uống thuốc độc tự vẫn để giữ gìn khí tiết.
Hiểu quận công Nguyễn Đức Uông là hậu duệ đời thứ 11, chi Giáo của dòng họ Nguyễn Đức làng Quế Ở (nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan dưới thời vua Lê chúa Trịnh và có công lớn trong cuộc đánh dẹp nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình.
Nguyễn Quang Bật (1463-1505) quê ở xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Trạng nguyên dưới thời Lê Thánh Tông, là một vị quan tiết nghĩa triều Lê sơ.
Hàn Thuyên sinh năm 1229, tên thật là Nguyễn Thuyên. Ông làm tới chức Thượng thư Bộ Hình dưới thời vua Trần Nhân Tông. Hàn Thuyên rất giỏi thơ quốc âm và được xem là người phát triển và phổ biến chữ Nôm của Việt Nam.
Ngô Miễn Thiệu sinh năm 1499 là người thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là một vị quan dưới hai triều nhà Lê và nhà Mạc. Ông cũng là một nhà giáo nổi tiếng trong lịch sử.